Xuất Xứ:
Thảo quả là một loài thực vật có hoa thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Là một cây thuộc họ gừng, trông nó cũng na ná như cây gừng nhưng lớn hơn nhiều. Thường được dùng làm thuốc trong Trung y và ẩm thực Trung Hoa cũng như ẩm thực Việt Nam. Thảo quả thường dùng trong ẩm thự là quả chín phơi hay sấy khô của cây thảo quả. (wiki)
Đặc Tính:
Thảo quả có thể cao tới 2-3m, đường kính thân có thể tới 4cm. Quả của nó mọc ra ở gốc thành từng chùm màu đỏ mận chín. Mỗi quả có trên 20 hạt & người ta chủ yếu thu hạt là chính. Hạt có mùi thơm đặc trưng nhờ nó chứa tới 1,5% tinh dầu có vị nóng, cay dễ chịu.
Cây ra hoa về mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 7), có quả vào mùa đông (tháng 10-12). Thảo quả mọc hoang và được trồng ở vùng núi cao hơn 1.000m, có khí hậu mát lạnh, dưới tán rừng cây to, đất ẩm nhiều mùn thuộc các địa phương vùng núi Hoàng Liên Sơn và vùng Tây Bắc nước ta, như ở các huyện vùng cao thuộc các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu…
Thành phần hoá học chính: Tinh dầu (1-1,5%).
Khi nói đến các chất dinh dưỡng của thảo quả, các chuyên gia sức khỏe đều thừa nhận trong loại thảo dược này có hàm lượng các chất sau rất phong phú: Carbohydrate; protein; chất xơ; các vitamin như vitamin C, niacin, pyridoxine, riboflavin và thiamin; khoáng chất như phốt pho, đồng, sắt, canxi, magiê, mangan và kẽm; tinh dầu (dầu dễ bay hơi)…
Bộ phận được dùng làm thuốc là hạt thảo quả. Vào mùa đông (tháng 11, 12, hoặc tháng 1) người ta hái quả chín vàng, đem về phơi khô hay sấy khô, khi dùng đập bỏ vỏ ngoài lấy hạt. Cũng có nơi lấy cám gạo hòa với nước cho sền sệt, bao chung quanh quả, nướng cho cháy cám rồi đập bỏ vỏ ngoài, lấy hạt dùng.
Công Dụng:
Thảo quả là một loại thảo dược được sử dụng rộng rãi trong nhiều món ăn. Nhờ đặc tính vừa thơm, vừa ngọt lại cay, thảo quả được coi là “nữ hoàng” của các loại gia vị. Thảo quả được chưng cất thành tinh dầu làm hương liệu và làm gia vị trong các món ăn, chế bánh kẹo.
Thông thường, loại hạt này được sử dụng làm phụ gia trong đồ uống như trà và cà phê vì nó có hương vị độc đáo và thơm ngon.
Theo y học cổ truyền, thảo quả có vị cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng trục hàn, trừ đờm, ấm bụng, tiêu tích, giúp ăn ngon miệng. Bộ phận được dùng làm thuốc là hạt. Trong dân gian, thảo quả chủ yếu dùng để làm thuốc kích thích tiêu hóa, chữa nôn mửa, bụng trướng đau, ho, sốt, tiêu chảy,…Chữa đau bụng đầy chướng, ngực đau, ỉa chảy, ho có nhiều đờm, đờm đặc gây khó thở.
Giúp giảm lượng caffeine trong cơ thể. Làm giảm sự co thắt dạ dày. Làm mát cho cơ thể
Giảm bớt đau bụng ở trẻ em. Làm dịu sự đau họng. Giảm đau dây thần kinh. Điều trị nhiễm trùng đường hô hấp do dị ứng như ho, cảm lạnh, viêm phế quản và hen suyễn.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.